Nguyên tác Anh ngữ : Tiến Sĩ  P.V. Bapat

Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng

 

--o0o--

 

Lời giới thiệu

 

Thế kỷ thứ sáu trước tây lịch đã đánh dấu một thời điểm khởi sắc về tri thức về tâm linh ở nhiều quốc gia. Ở Trung Hoa chúng ta có Lão Tử và Khổng Tử, ở Hy Lạp có Parmenides và Empedocles, ở Iran có Anathustra, ở Ấn Ðộ có Mahavira và Ðức Phật. Trong giai đoạn này nhiều bậc đạo sư xuất sắc đã biên tập lại các giáo lý đã có từ trước và  phát triển những quan điểm mới.

 

Purnima hay là ngày trăng tròn của Vaisakha có liên hệ tới ba sự kiện trong cuộc đời của Ðức Phật  - Ðản sinh, thành đạo và niết bàn. Niết bàn là ngày thiêng liêng nhất trong Phật lịch. Theo Phật Giáo Nguyên Thủy, sự kiện Phật nhập diệt xảy ra vào năm 544 trước TL. Dù các tông phái PG có biên niên sử độc lập, nhưng họ đều đồng ý lấy ngày trăng tròn tháng 5 năm 1956 để tổ chức ngày kỷ niệm Ðức Phật nhập niết bàn. Tập sách này trình bày sơ lược về Phật giáo trong 2500 năm qua.

 

Những sự kiện chính yếu trong cuộc đời của Ðức Phật đã được biết rõ. Ngài là một hoàng nhi của một tiểu vương xứ Kapilavastu, trưởng thành trong sự xa hoa, kết hôn với Yasodhara, có một con trai là Rahula, và chỉ sống bên trong những bức tường của hoàng cung mà không được biết gì về những đau khổ của thế gian. Truyện tích kể rằng trong bốn dịp ra ngoài hoàng cung, ngài gặp một người già và cảm thấy mình sẽ phải chịu sự già yếu, rồi ngài gặp một người bệnh và cảm thấy mình cũng sẽ phải chết, rồi ngài gặp một tu sĩ có gương mặt bình thản vì đã sống theo lối sống của những người tìm cầu chân lý. Ðức Phật quyết định đạt giải thoát khỏi sự già yếu, bệnh tật và sự chết bằng cách làm theo gương vị tu sĩ đó. Vị ấy nói với Ðức Phật.

 

“Tôi là một sa môn, một khất sĩ, vì sợ sinh và tử nên đã từ bỏ đời sống gia đình để đi tìm giải thoát”.

 

Hình ảnh vị tu sĩ  thánh thiện, thân thể khỏe mạnh, tâm trí an vui, dù không có một tiện nghi thế gian nào, đã gây ấn tượng mạnh cho đức Phật, và ngài nghĩ rằng lối sống xứng đáng nhất cho người ta là tu hành đạt giải thoát. Ðời sống tôn giáo làm cho người ta thoát khỏi những thử thách tạm thời và những hạnh phúc phù du của thế gian.Ngài quyết định từ bỏ đời sống thế gian để cống hiến bản thân mình cho đời sống tâm linh. Ngài rời bỏ hoàng cung, vợ và con của mình, mặc áo của người hành khất, đi vào rừng núi để suy ngẫm về sự khổ đau của con người. Trong sáu năm ngài học được những giáo lý thâm thúy nhất, chịu đựng những khổ hạnh khắc nghiệt nhất, tự giảm mình xuống tới mức gần chết đói, vì mong rằng do hành xác mình sẽ giác ngộ chân lý. Nhưng ngài đã đi rất gần đến cái chết mà không đạt được trí tuệ nào như mong muốn. Ngài từ bỏ lối tu khổ hạnh, trở lại với lối tu bình thường, giải khát bằng nước sông Nairanjana và dùng sữa do cô bé Sujata dâng lên. Sau khi thể xác đã mạnh khỏe và tâm trí đã minh mẫn trở lại, ngài ngồi dưới gốc cây bồ đề tham thiền trong bảy tuần lễ, nhập vào trạng thái thiền định sâu xa nhất. Một đêm vào lúc rạng đông, tâm trí của ngài mở rộng và ngài đạt được giác ngộ. Sau đó ngài tự gọi mình là Như Lai (Tathagata), nghĩa là người đã đi tới Chân lý. Ngài mong muốn cho mọi người biết về tri kiến của mình đã đạt được, vì vậy ngài nói “Ta sẽ đi tới thành Baranas để  thắp ngọn đèn soi sáng thế gian. Ta sẽ đi tới Baranas để đánh trống cho loài người thức tỉnh. Ta sẽ đi tới Baranas để truyền dạy Giáo Pháp”. Ngài cũng nói : “Hãy nghe đây, này các vị khất sĩ, ta đã tìm thấy sự bất tử. Nay ta sẽ dạy cho mọi người. Ta sẽ thuyết giảng Giáo pháp”. Ngài đi khắp nơi, gặp đủ hạng người từ cao tới thấp, từ bậc vương giả tới người nông dân. Họ đều được thu hút bởi nhân cách vĩ đại của ngài. Trong bốn mươi lăm năm Ðức Phật dạy về cái đẹp của hạnh bố thí, niềm vui của hạnh xả ly, sự cần thiết của lòng thành thật và tâm bình đẳng.

 

Năm tám mươi tuổi ngài đi tới thành phố Kusinagara, nơi ngài nhập niết bàn. Rời khỏi thành phố Vaisali cùng với người đệ tử thị giả là Ananda. Ngài nghỉ chân trên một quả đồi và nhìn phong cảnh xung quanh với những đền chùa và tu viện, ngài bảo Ananda: “Ấn độ quá đẹp đẽ và thịnh vượng, đời sống của người dân đáng yêu và dễ chịu”. Các đệ tử dọn cho ngài một chỗ nằm giữa hai gốc cây trong vườn cây Sala trên bờ sông Hiranyavati. Khi thấy Ananda khóc than. Ðức Phật đã an ủi như sau: “Ðừng khóc nữa, đừng tuyệt vọng hỡi Ananda . Người ta rồi cũng phải có lúc chia ly với tất cả những gì thân yêu. Cái gì có sinh tử, không thường tồn, mà lại không có lúc mất đi? Có lẽ ông đang nghĩ: “Chúng ta không còn ai dạy bảo mình nữa”. Không phải như vậy đâu, vì giáo lý mà ta đã truyền cho ông chính là vị thầy của ông đó”.

 

Rồi ngài lặp lại lời dạy: Hỡi các sa môn , ta nói cho các ngươi biết : mọi vật đều là vô thường, hãy thành tâm tu tập đạt giải thoát”.

 

Ðó là những lời cuối cùng của Ðức Phật. Ngài thiền định, và khi mọi ý nghĩ và cảm giác đều không còn, khi tâm thức ngừng lại, ngài nhập vào cõi đại niết bàn.

 

II

Có hai phương diện trong cuộc đời của Ðức Phật, đó là phương diện cá nhân và phương diện xã hội. Hình ảnh Ðức Phật mà người ta quen thuộc là hình ảnh một hành giả đang tham thiền nhập định, trụ trong an lạc nội tâm. Hình ảnh này thuộc truyền thống Phật Giáo Theravadavà của những đoàn truyền giáo của Hoàng Ðế Ashoka. Ðối với truyền thống này thì Ðức Phật là một người chứ không phải là Thượng Ðế, một vị thầy chứ không phải là một đấng cứu rỗi.

 

Phương diện xã hội của cuộc đời đức Phật là khi ngài quan tâm tới sự đau khổ của người thế gian, đi vào đời sống của họ, giải trừ phiền não cho họ, và truyền dạy giáo lý của ngài cho quần chúng. Tâm từ bi đối với thế gian này lá nền móng của truyền thống thứ nhì thành hình ở miền Bắc Ấn Ðộ trong triều  đại Kusana (70 - 480 công nguyên) và triều đại Gupta (320 - 650 công nguyên). Truyền thống này biểu dương ý tưởng giải thoát chúng sinh chứ không chỉ cho riêng mình, hạnh tôn sùng và việc phụng sự thế gian.

 

Truyền thống Phật Giáo Theravada được truyền bá ở Tích Lan, Miến điện và Thái Lan còn truyền thống thứ nhì thì thịnh hành ở Nepal, Tây Tạng, Triều Tiên, Trung Hoa, và Nhật Bản

 

Tuy nhiên, tất cả các phái Phật giáo đều coi Ðức Phật là vị sáng lập, là người đã nổ lực đạt trí tuệ siêu việt khi ngài tham thiền dưới gốc Bồ Ðề, là vị hướng dẫn chúng sinh thoát khổ và cũng đạt trí tuệ hoàn hảo. Ðây là gốc rễ của Phật Giáo, là sự thống nhất nằm ở bên dưới những khác biệt về quan điểm và lối phát biểu của các phái khi tôn giáo này được truyền từ ấn Ðộ tới các xứ khác trên thế giới

 

Tính chất cốt yếu của tôn giáo là làm thay đổi lòng người. Ý niệm về sự sinh ra lần thứ nhì là giáo lý trung ương của Ấn Giáo và Phật Giáo. Con người không phải là một thực thể đơn nhất mà là một vật đa tạp. Con người còn đang hôn trầm, sống theo bản năng giống như một người máy. Ở trong tâm y không có sự nhất quán. Y phải thức tỉnh, phải đạt sự hợp nhất và có sự hoà hợp nội tâm, và phải thoát vô minh. Thần thoại Hy lạp cũng nói tới sự thay đổi tâm tính này, con ngưòi giống như một hạt lúa. Hạt lúa có thể chết để tái sinh thành một cây lúa. Hạt lúa có thể được giã thành bột để làm bánh mì, hoặc được chôn trong đất để nẩy  mầm, mọc lên thành cây có hàng trăm hạt lúa khác. Thánh Paul của Thiên Chúa  Giáo cũng dùng ý tưởng này để nói về sự sống lại như sau: “Cái mà người ta gieo trồng thì phải chết đi rồi mới có thể sống mạnh “Khi được gieo trồng, nó là thân tự nhiên. Khi tái sinh nó là thân tinh thần”. Sự thay đổi này là sự chuyển hoá của chính vật thể. Con người khônh thể là một sản phẩm hoàn hảo, mà là một thực thể có khả năng tự chuyển hoá. Mục tiêu của Phật Giáo cũng như tất cả các tôn giáo là thực hiện sự thay đổi này, là giúp con người tái sinh và thức tỉnh.

 

Vì vô minh mà con người lệ thuộc vào thời gian và không gian, tức cõi luân hồi. Vô minh dẫn tới những hành động xấu. Si mê và tham dục là nền móng của đời sống vật chất. Từ vô minh người ta phải vươn lên tới giác ngộ. Khi đã có trí minh sát người ta đạt được trạng thái tâm an tĩnh. Trong  những điều này, Ðức Phật cũng dùng những kinh nghiệm thực chứng như trong kinh Vena về sự trụ tâm và trí tuệ thấu đạt chân lý.

 

III

 

Ðức Phật đã không nói là mình tuyên xưng một tôn giáo mới. Ngài đã sinh ra, trưởng thành, và qua đời như một người Ấn Giáo. Ngài trình bày lại những tư tưởng lâu đời của nền văn minh Ấn Ðộ Aêryan.Ngài đã trông thấy con đường mà các đấng giác ngộ đã đi theo. Những gì mà ngài đã biết trọn vẹn trên con đường đó, ngài dạy lại cho các tu sĩ cũng như những người tại gia. Con đường này là Phạm  Hạnh (Brahsma charya) được phổ biến và được hiển dương cho các vị thần cũng   như loài người

 

Mục tiêu của tôn giáo ở Ấn Ðộ là an lạc, vô uý, giải thoát và niết bàn. Con người nên cố gắng vươn lên khỏi sự vật thế gian, thoát khỏi cỏi ảo giác, xua tan bóng tối bên ngoài để nhập vào cõi ánh sáng tâm linh. Ðức Phật hướng dẫn người ta đạt đời sống tinh thần mới bằng sự giác ngộ. Ngài dạy rằng mục tiêu cao cả nhất của loài người là trạng thái không có sinh, lão, bệnh, tử và không có sự tạo nghiệp

 

Phật Giáo nhắm tới sự chứng nghiệm tâm linh mà ở trong đó không có những sự chấp thủ vị kỷ và do đó không có mong cầu hay lo sợ.  Ðó là trạng thái an lạc nội tâm một cách hoàn hảo, kèm theo là niềm tin mình đã đạt giải thoát tâm linh, một trạng thái mà không lời lẽ nào có thể diễn tả được. Chỉ có người chứng nghiệm mới biết về nó. Trạng thái này không phải là đời sống trên thiên đàng của các vị thần. Ðức Phật nói với các đệ tử rằng “các vị phải biết ngượng và cảm thấy không vui lòng nếu tu sĩ của các phái khác hỏi họ là phải chăng họ tu tập với Ðạo sĩ Cồ Ðàm là để siêu thăng lên một cõi trời nào đó”. Cũng như Áo Nghĩa Thư của Ấn Giáo phân biệt giải thoát với đời sống trong cõi trời, Ðức Phật dạy rằng các vị thần thuộc về thế giới hiện tượng và vì vậy cũng ở trong sự chi phối của luật nhân quả. Trạng thái siêu việt nhân quả thì vượt lên trên hai cực có và không. Trạng thái giải thoát, tức Phật quả, cao hơn trạng thái hiện hữu của Phạm Thiên (Brahma). Ðây là trạng thái vô sắc tướng, tròn đầy, và vĩnh cửu. Kinh Phật nói rằng tuyệt đối là cái siêu việt vốn vô sinh, không biến dịch, không giả hợp. Ðức Phật tự gọi mình là “Brahma bhuta”,  “trở thành bà la môn, tức người trí thức”. Phật Giáo không phải là tôn giáo hữu thần, nhưng Ðức Phật nói tới Chân Lý Tuyệt Ðối. Ngài nhận thấy nhiều người không chịu hoạt động vì họ tin rằng Thượng Ðế sẽ làm tất cả cho họ. Có lẽ họ quên rằng thành tựu tâm linh là sự trưởng thành ở trong tâm. Trong khi người có học lý luận về cái bất khả thuyết thì người ít học coi Thượng Ðế là đấng mà mình có thể khống chế bằng nghi lễ hay pháp luật. Nếu Thượng Ðế sẽ tha thứ tất cả thì người có thể sống ra sao cũng được. Ðức Phật hướng dẫn mọi người tránh sự không hiểu biết và mê tín này cũng như sự sợ hãi những quyền lực tưởng tượng vốn thường đi kèm theo tín ngưỡng quần chúng. Thêm nữa quan kiếm duy thần thường gây ra chủ nghĩa giáo điều và tính phân biệt tôn giáo. Chủ nghĩa chính thống giáo điều cực đoan chỉ làm cho thế giới thêm đau khổ, bất công, tội lỗi, thù hận, và chiến tranh.

 

Tất cả những tôn giáo Ấn Ðộ, gồm Ấn Giáo, Danh Giáo, Phật Giáo, và Sinh, đều coi thế gian là cõi luân hồi được chi phối bởi luật nhân quả. Không có gì là thường tồn, kể cả những vị thần. Sự chết cũng không vĩnh cửu vì nó sẽ trở thành sự sống mới. Con người không chỉ sống một kiếp mà lại phải chịu hậu quả hành vi của mình mãi mãi. Ðức Phật không chấp nhận thuyết số mạng nhưng ngài không nói rằng người ta không thể quyết định được tương lai của mình. Con người có thể hoạch định tương lai, trở thành La Hán, đắc niết bàn . Ðức Phật đã nói nhiều về sự đau khổ của đời người. Mục tiêu của chúng ta là vượt thời gian, thoát luân hồi, bằng cách thực hành đạo pháp đạt giác ngộ.

 

Ðức Phật nói rằng không có một cái “ta” thường tồn hay bất biến, vì cái “ta”có thể được chuyển hoá bằng những hành vi tốt. Trong khi luật nhân quả chi phối cõi sắc tướng thì niết bàn là cõi tự tại của chủ thể, của nội tâm. Người ta có thể vượt lên trên những giới hạn của đời sống thế gian để chứng nghiệm cõi chân không. Ðể vượt ra ngoài sự sống nhị nguyên người ta phải có ý thức về sự đóng đinh thập giá, ý thức về sự hủy diệt đáng đau khổ, ý thức về sự trống không của đời sống thế gian lệ thuộc sự biến dịch và sự chết. Người ta phải biết kêu lên trong tuyệt vọng : “Ai sẽ cứu tôi khỏi sự chết?” Nếu sự chết cũng như sự trống không không phải là tất cả thì phải có một cái gì không chết, dù là cái không diễn tả được. Nó là cái vô sinh bất diệt, không phải là thâm tâm năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức vốn là những thứ vô thường, biến dịch, không có tự tính. Khi có nhận biết ra rằng những gì vô thường thì đau khổ, y sẽ xa rời chúng và do đó đạt giải thoát. Ðiều kiện không thể thiếu để thực hiện việc này là ý thức cao cấp về cái “ta” hay là một cái gì giống như vậy. Cái: “ta” này là chân tâm nguyên thủy vô sinh bất diệt. Khi chứng ngộ chân tâm này người ta sẽ đạt giải thoát cũng như quyền năng tâm linh. “Tự ngã” không phải là thân năm uẩn , nhưng như vậy không có nghĩa là không có một “tự ngã” nào cả. Cái ta không phải là nội dung độc nhất của tự ngã, dù nó là nội dung duy nhất có thể được biết tới một cách khách quan. Có một phương diện khác của “tự ngã” có khả năng giúp người ta đắc niết bàn. Khi Ðức Phật dạy người ta nên tinh tấn  đạt giải thoát, ngài muốn nói cái nguyên lý bên trong không bị giòng sự kiện, hay hoàn cảnh , lôi cuốn theo hay chi phối, có thể tự bảo vệ chống lại những khuynh hướng của xã hội, không quy phục ý kiến của người thế gian, mà lại có khả năng bảo vệ quyền lợi của mình. Người giác ngộ là người được tự tại, vì đã giải toả mọi sự trói buộc.

 

Tu sĩ là người đã làm chủ được bản thân, “người nhiếp phục tâm trí chứ không lệ thuộc quyền lực của tâm trí”. Khi đắc niết bàn, Ðức Phật không tan biến vào hư không. Ngài không tiêu diệt, mà chỉ có sự tận diệt của mọi cảm xúc phiền não. Ngài không còn sự chi phối của tà kiến và ái dục vốn là những điều gây ra luân hồi. Ðức Phật biết rằng mình đã thoát khỏi những cá tính tạo nên một cá nhân. Ngài không còn ở trong cõi nhị nguyên nữa. “Khi muốn điều gì, người ta  nghĩ tới đều đó. Không muốn điều gì người ta không nghĩ tới điều đó”.

 

Ðức Phật dạy chúng ta trí tuệ hoàn hảo bát nhã và thực hành Tâm từ bi. Luật nhân quả không phán xét tín ngưỡng của chúng ta nhãn hiệu mà chúng ta khoác lên mình, hay những giáo điều mà chúng ta hô lớn, mà sẽ đánh giá công thức và cách cư xử của chúng ta đối với chúng sanh. Con người là một sinh linh yếu ớt, chịu những đau khổ lão, bệnh, tử, vậy mà do vô minh và kiêu ngạo, người ta lại chê trách người bệnh, người già và người chết. Thái độ như vậy là bật công đối với chính mình. Chúng ta không nên tìm lỗi những người gặp chướng ngại các loại trên đường đời, vì chúng ta không biết họ đang phải chịu nhựng nghiệp quả nào. Nếu có kinh nghiệm về đau khổ, chúng ta sẽ biết thông cảm với tất cả những người đang đau khổ.

 

IV

Phật Giáo đã không phát sinh như một tôn giáo mới , độc lập với những tôn giáo khác, mà phát xuất từ tín ngưỡng Ấn Giáo đã có từ trước, và có lẽ là một sự phân phái. Về những giáo lý siêu hình và đạo đức căn bản thì Ðức Phật đồng ý kiến với tôn giáo của xã hội mà ngài sinh ra. Nhưng ngài phản đối một số nghi thức thịnh hành trong thời đó, thí dụ như những nghi lễ của kinh Veda. Khi người ta thỉnh cầu ngài cử hành một số những nghi lễ này, ngài nói: “Các người nói rằng vì giáo Pháp ta nên làm những nghi lễ tế sinh vốn là tập quán của gia tộc ta và sẽ mang lại lợi ích như mong muốn. Nhưng ta không đồng ý như vậy, vì ta không cần cái hạnh phúc mua bằng sự đau khổ của những sinh linh khác”.

 

Áo Nghĩa Thư cũng không ủng hộ nghi lễ tế sinh trong tín ngưỡng phát xuất từ bộ kinh này, nhưng không phản đối theo lối giống như của Ðức Phật là cải cách tôn giáo và trở lại những giáo lý căn bản. Tất cả những nào trung thành với yếu chỉ của Ấn Giáo và nổ lực làm cho tôn giáo này phù hợp với tiếng nói của tâm giác ngộ thì đều được coi là những vị hóa thân. Người Ấn Giáo tin rằng Thiên Ðế Visnu hiện lộ trong nhiều thân khác nhau để thực hiện những đều ích lợi cho loài người. Ðức Phật được coi là một vị hoá thân cải cách Ấn Giáo tránh tục lệ hiến tế súc vật và những nghi thức sai lầm khác vốn đã được đưa vào tôn giáo này. Giáo lý về hoá thân (avatara) giúp chúng ta bảo tồn tín ngưỡng cổ truyền trong khi thực hiện cải cách tôn giáo. Kinh Puranacủa Ấn Giáo nói rằng Ðức Phật là hóa thân thứ chín của Thiên Ðế Visnu. Khi nói về các hóa thân, đạo sư Jayadeva coi Ðức Phật là một hóa thân của Visnu, và viết như sau : “Ðấng từ bi bác bỏ giáo lý tế sinh trong kinh Veda. Kesava vinh quang trong thân Ðức Phật, Hari, chúa của thế gian. Ðức Phật không bác bỏ toàn thể kinh sách, mà chỉ phản đối phần dạy về tế sinh. Trong câu kế tiếp, đạo sư Jayadeva nói về mười hoá thân : “Các vị hiển dương kinh Veda, hổ trợ vũ trụ , nâng cao thế gian ,hủy diệt ma quỷ , chống lại Bali, để phá lực lượng của giai cấp Ksatriya (sát đế lị), nhiếp phục chúa quỷ Ravana, chế tạo cái cày, ban rải từ bi, chiến thắng ngoại đạo, đảnh lễ đức Krisna, đấng cho mười hoá thân”.

 

Ðức Phật đã dùng Ấn Giáo cổ truyền để hiện chỉnh một số giáo lý của tôn giáo này. Ngài tới thế gian để thực hiện chứ không phải để huỷ diệt. Ðức Phật là một đại biểu xuất sắc của truyền thống tôn giáo Ấn Ðộ. Ngài đã để lại dấu chân trên đất Ấn Ðộ và dấu hiệu trên linh hồn của xứ năng với những tập quán và tín ngưỡng của nó. Trong khi giáo lý của Ðức Phật được thiết lập ở những xứ khác trên thế giới một cách phù hợp với phong tục của họ, khi ở Ấn Ðộ quê hương của ngài, Phật Pháp đã đi vào và trở thành một thành phần của văn hóa Ấn Ðộ. Các bà la môn và các sa môn đã được Ðức Phật đối xử bình đẳng, và hai truyền thống dần dần hoà nhập vào nhau. Theo một ý nghĩa, Ðức Phật là người thiết lập Ấn Giáo hiện đại .

 

Sau vô số những tìm kiếm, có khi loài người biết xác lập chính mình, giác ngộ mục đích sự hiện hữu của mình một cách cao thượng, để rồi lại làm mất chính mình trong tiến trình phân hóa rất chậm chạp. Ðức Phật nhắm tới việc gây dựng một hạng người tự do mới, thoát khỏi những thành kiến, quyết tâm xây dựng tương lai, và chỉ trông cậy vào chính mình. Giáo lý nhân bản của ngài vượt lên trên những hàng rào chủng tộc và quốc gia. Nhưng tình trạng hỗn loạn của thế giới phản chiếu sự xao động trong tâm trí con người. Lịch sử đã trở thành tính cách hoàn cầu. Ðề tài của lịch sử không còn là Âu hay Á, Ðông hay Tây, mà là nhân loại ở mọi xứ và mọi thời đại. Thế giới là một thực thể độc nhất, dù người ta muốn hay không muốn, và dù có sự chia rẽ về chính trị. Vận mệnh của của mỗi người có liên quan tới vận mệnh của người khác. Nhưng chúng ta đang chịu sự mệt mỏi của tâm linh và sự gia tăng tâm vị kỷ cá nhân cũng như tập thể, làm cho ý niệm thế giới đại đồng khó có tính cách hấp dẫn, cái mà chúng ta đang cần một quan kiến tâm linh về vũ trụ mà xứ Ấn độ này đã có, để lại thổi vào cuộc đời, mở tung những cánh cửa đang đóng kín đời người. Chúng ta phải tái lập lý tưởng tự do tâm linh. Nếu muốn có hòa bình, chúng ta phải duy trì sự hòa hợp nội tâm đó, sự thăng bằng tâm linh đó, vốn là những thành tố thiết yếu cho hòa bình. Chúng ta phải thủ đắc chính mình, dù phải mất tất cả những thứ khác. Tinh thần tự do sẽ không hạn chế lòng từ ái của mình, sẽ nhận ra điểm linh quang trong mỗi con người, và sẽ cống hiến chính mình cho lợi ích của nhân loại. Nó sẽ liệng bỏ mọi sự lo âu, trừ sự sợ mình làm điều xấu, sẽ vượt lên trên hàng rào thời gian và sự chết để tìm năng lực vô tận trong đời sống vĩnh cửu.

 

S. Radhakishnan